chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam
Diễn đàn cạnh tranh Quốc gia
![]() |
Ảnh minh họa |
Theo ông Hồng, Cục đã rà soát giảm thiểu được 27 TTHC (từ 66 TTHC xuống còn 39 TTHC). Trong đó, hồ sơ đăng ký KDTV nhập khẩu giảm từ 8 loại giấy tờ xuống còn 3 loại, hồ sơ đăng kí KDTV xuất khẩu giảm từ 6 loại giấy tờ xuống còn 1 loại đối với vật thể XK…
Bên cạnh đó, quy định mới về đăng ký KDTV của Thông tư 33 cũng đã giúp rút ngắn thời gian làm thủ tục KDTV từ 24 giờ xuống còn tối đa 4 giờ đối với hàng hóa vận chuyển qua đường bộ và đường hàng không và 10 giờ đối với hàng hóa qua cảng biển.
Nếu tính chung tất cả các cửa khẩu, thời gian thực hiện thủ tục KDTV đã rút ngắn trên 50% so với năm 2014. So với thời gian KDTV của các nước trong khu vực, Việt Nam có thời gian tương đương hoặc ngắn hơn.
Thêm vào đó, Cục đã phối hợp chặt chẽ với Tổng cục Hải quan rà soát, thống nhất và hoàn thành trình Bộ NNPTNT ban hành toàn bộ mã số HS liên quan đến thuốc BVTV và các vật thể thuộc diện KDTV.
Hiện nay, Cục đang thực hiện thí điểm và sẽ trình Bộ ban hành quy định về xã hội hóa công tác KDTV xuất khẩu nhằm tạo điều kiện tối đa cho các DN XK nông sản.
Đến nay, Cục đã đề xuất gộp 7 loại lệ phí cấp phép, giấy chứng nhận, chứng chỉ về thuốc BVTV và giảm mức phí đối với phí thẩm định cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thuốc BVTV dựa vào đánh giá thực tế. Việc triển khai này ước tính giảm được 27 tỷ đồng.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực bảo vệ thực vật, vẫn còn một số vấn đề được cho là đang gây khó khăn cho doanh nghiệp. Chẳng hạn, quy định DN chỉ được đăng ký 01 hàm lượng hoạt chất cho mỗi dạng thành phẩm của thuốc BVTV, theo quy định tại Thông tư 21 về quản lý thuốc BVTV.
Hoặc đối với thủ tục kiểm dịch dăm gỗ xuất khẩu, theo quy định hiện hành thì phí kiểm dịch được thu theo từng lô 500 tấn, tức là một tàu chở 40 nghìn tấn dăm gỗ sẽ mất khoảng 43 triệu đồng phí kiểm dịch. Đây là một gánh nặng tài chính với doanh nghiệp.
Thành Đạt